Cần phân biệt
X-RAYS, CT SCAN, MRI, PET SCAN , ULTRA
SOUND
Các phương pháp
chụp hình để chẩn bệnh
BS. Hồ Ngọc Minh
LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh
được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm
muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về
bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực
thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về
Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch
tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên
lạc: (714) 429-5848, trang nhà:www.bacsihongocminh.com
1. X-rays (X-quang )
là gì?
Để hiểu X-quang là gì,
trước hết hãy tìm hiểu khái niệm về "sóng điện từ trường” (electromagnetic
wave, electromagnetic radiation).
Chung quanh chúng ta
luôn luôn hiện hữu một không gian năng lượng dưới dạng điện từ trường, trong đó
ánh sánh mặt trời, hay ánh sáng mà chúng ta thấy được cũng chỉ là một dạng sóng
điện từ trường. Có nhiều loại sóng từ trường, từ yếu đến mạnh theo thứ tự, gồm
có: sóng radio, sóng microwaves, sóng hồng ngoại (infared, IR, dùng trong các
remote controls), ánh sáng thường, tia cực tím còn gọi là tia tử ngoại
(ultraviolet light, UV), tia X-quang, và cuối cùng là gamma-rays. Như thế chỉ
có 3 loại sóng mạnh hơn là ánh sáng thường. Sóng càng mạnh, độ "xuyên thủng” qua tế
bào càng nhiều. Ba tia X-rays, UV, và Gamma đều được sử dụng trong y học để
truy tầm hay chữa bệnh. Trong khi đó, ánh sáng
thường trở xuống, khi đụng vật cản đa phần sẽ bị phản chiếu và ít ảnh hưởng đến
cấu trúc hay làm hư hại vật thể bên trong. Mở ngoặc một tí cho vui, tôi nói "đa
phần” ở đây vì sóng có thể tồn tại dưới dạng sóng (wave), năng lượng (energy),
và vật chất (matter), vì thế năng lượng có khi một phần bị hấp thụ mà không
phản chiếu ra. Có thể hiểu, cơ thể chúng ta, có lúc hiện hữu chỉ là một khối
lượng sóng và năng lượng trong không gian điện từ trường!.
X-rays được khám phá
năm 1895 bởi một giáo sư vật lý người Đức, Wilhelm Conrad Röentgen. Một công dụng thường dùng của X-rays là để
"chụp hình quang tuyến”, tuy nhiên X-rays còn
dùng để trị ung thư và để dò tìm các thiên thể trong ngành thiên văn (cosmos).
X-rays còn được dùng để dò tìm hàng lậu, súng ống ...
2. CT scan là gì?
CT scan còn gọi là CAT
scan, viết tắt của hai chữ "computed tomography”, được phát minh năm 1967 bởi
một kỹ sư người Anh tên là Godfrey Hounsfield. CT cho ta thấy hình chụp của cơ thể theo dạng
mặt cắt, một khối 3 chiều, thể hiện trên những mặt phẳng hai chiều. Mỗi một hình ảnh là tập hợp bởi nhiều tia
X-rays, bắn đi từ nhiều hướng khác nhau vòng quanh cơ thể. Khi chụp hình bằng
X-ray thường, tia sáng bắn đi một chiều nên hình ảnh chồng lên nhau. Thí dụ
chụp hình phổi, ta thấy cả tim phổi xương sườn chồng lên nhau làm cho khó thấy
rõ chỗ bị bệnh. CT scan dùng computer để tổng hợp hình X-rays từ nhiều góc độ
khác nhau, để có thể để tạo ra hình chụp rõ ràng, giống như cơ thể được cắt
ngang từng lát mỏng như những lát chanh trong dĩa bò tái chanh!
3. MRI là gì?
Một hạn chế của X-rays
là nó xuyên qua cơ thể và mang theo phóng xạ (radiation) vì thế ngày nay MRI có
nhiều lợi thế hơn. MRI viết tắt của ba chữ, Magnetic Resonance Imaging. MRI
được sáng chế bởi Paul C. Lauterbur vào năm 1971, nhưng kỹ thuật không được
hoàn thiện mãi cho đến những năm 1990’s.. Nguyên tắc của MRI là tạo ra một từ trường
chung quanh phần cơ thể muốn chụp hình. Vì trong cơ thể chúng ta hầu hết là...
nước, mà phân tử nước có chứa nguyên tử Hygrogen mang điện cực dương, còn gọi
là proton. Khi bị kích động bởi từ trường, những hạt proton như bị "sắp hàng
lại” và rung lên, phát ra sóng radio. Máy computer sẽ ghi nhận sóng radio nầy
thành hình ảnh.
Như vậy, chung chung,
MRI an toàn, và kỹ thuật càng ngày càng tiến bộ, độ chính xác nhiều hơn là CT.
4. PET scan là gì?
PET scan là chữ viết
tắt của Positron Emission Tomography. PET scan là một thử nghiệm dùng chất
phóng xạ để truy tầm những dấu hiệu bất bình thường trong cơ thể, hầu hết là
truy tầm bệnh ung thư hay ung thư di căn. Tuỳ theo trường hợp, bệnh nhân sẽ được tiêm, uống, hay hít thở hơi
có chất phóng xạ, gọi là radiotracer. Nguyên tắc là, các tế bào bất thường, như
ung thư chẳng hạn, thường tụ tập thành khối u, và sử dụng nhiều máu, nhiều
oxigen, ăn nhiều đường, tiêu hoá và sanh sản nhanh hơn tế bào thường. Như thể
nhờ vào chất phóng xạ, những chỗ bất thường nầy sẽ hiện lên hình bất thường ở
những tụ điểm. PET scan thường kết hợp với CT
hay MRI, vì hai thử nghiệm trên chỉ phát hiện hình ảnh, thí dụ khối u chẳng
hạn, trong khi đó PET sẽ cho biết khối u đó là ung thư hay
không.
5. Siêu âm, ultrasound
là gì?
Ultrasound, còn gọi là
sonogram, là thử nghiệm dùng sóng âm thanh, siêu âm để tạo ra hình ảnh. Tương
tự như sóng radar mà các loài dơi dùng để định hướng, hay ứng dụng dò tìm tàu
ngầm, tìm máy bay cho trạm không lưu, hay tìm... cá cho dân đi câu! Thiết bị phát âm thanh sẽ bắn ra sóng âm
thanh, khi đụng vật thể muốn dò tìm sẽ dội lại tạo ra hình ảnh. Trong nghề cấy thai nhân tạo của tôi, máy siêu âm là con mắt thứ
ba của tôi mỗi ngày. Nhiều bệnh nhân hỏi tôi có an toàn không.. Xin trả lời là
rất an toàn, vì nó chỉ là sóng âm thanh, không có phóng xạ gì cả. Chỉ là âm
thanh mà chỉ có loài dơi hay những chú chó có thể nghe được mà thôi.
6. Mức độ an toàn của
các thử nghiệm?
Như thế, MRI
và sonogram có lẽ an toàn nhất vì chẳng dính dáng gì tới
phóng xạ, radiation cả. Millisievert (mSv) là đơn vị để đo độ phóng xạ. Mỗi
năm, trung bình mỗi người chúng ta chịu độ phóng xa là 3 mSv từ môi trường xung
quanh. Trong một chuyến bay 5 tiếng từ Los Angeles qua New York, mỗi hành khách
sẽ bị nhiễm phóng xa khoảng 0.03 mSv. Trung bình chụp hình X-rays,
tuỳ theo bộ phận của cơ thể, độ nhiễm phóng xạ từ 0.001 mSv cho đến 1.5 mSv,
thí dụ chụp hình ngực mammogram là 0.4 mSv và chụp hình phổi là 0.1
mSv, độ nhiễm ít hơn là một ngày phơi nắng ngoài biển! Trong khi đó,
CT scan, độ nhiễm phóng xạ từ 2 dến 20 mSv. Còn, mỗi PET scan, sẽ gây ra phóng
xạ khoảng 25 mSv.
So ra thì độ nhiễm phóng
xạ của các phương pháp chụp hình cũng không đến nỗi nào, vì lâu lâu mới chụp
một lần, và nếu cần là chuyện phải làm mà thôi. Nhờ vào những phát minh này mà
y khoa có thể dò tìm và chữa trị bệnh mau chóng.
Rủi Ro
Nhiễm Phóng Xạ Khi Làm CT Scan
Chúng ta
nên thận trọng khi quyết định đi làm CT scan vì rủi ro bị nhiễm phóng xạ hết
sức nguy hiểm.
BỆNH NHÂN
BỊ TIA PHÓNG XẠ GÂY HẠI trong một số khám nghiệm y khoa là điều rõ ràng. Tuy
nhiên, để bệnh nhân tiếp xúc với tia phóng xạ bao nhiêu thì mới gọi là nguy
hiểm?
Các cuộc
nghiên cứu mới đây đưa ra lời báo động cho rằng thủ tục làm CT scan được dùng ngày càng nhiều lúc gần đây, đưa đến
nhiều nguy hiểm cho bệnh nhân. CT
scan là viết tắt của chữ "computed tomography” nghĩa là kỹ thuật chụp hình
các bộ phận bên trong cơ thể con người. Đôi khi còn gọi là "imaging”
hay nội soi. Bác sĩ thường dùng phương pháp này để chẩn đoán bệnh.
CT scan được sử dụng để tìm đủ mọi loại bệnh từ nơi nào nhiễm trùng, té ngã
vỡ sọ, hay tìm bệnh ung thư.
Bác sĩ
Rebecca Smith-Bindman, ở bệnh viện UC San Francisco, và ê kíp chuyên viên của
bà vừa mới đưa ra một phúc trình nghiên cứu cho biết họ tỏ ý lo ngại vì
phương pháp CT scan được dùng khá nhiều lúc gần đây, tăng gấp ba lần kể từ
năm 1996 cho đến nay. Bản phúc trình nghiên cứu nói rằng kỹ thuật
CT scan phóng ra nhiều chất phóng xạ (radiation) hơn là phương pháp chụp bằng
quang tuyến X thông thường. Đặc biệt đối với trẻ em, rủi ro nhiễm
phóng xạ còn cao hơn gấp bội phần. Một nhóm nghiên cứu quốc tế công bố
bản báo cáo cho thấy trẻ em đang mạnh khoẻ, lỡ bị té ngã, đem các em
đi làm CT scan, các em có nhiều rủi ro sẽ bị ung thư so với trẻ em từ chối
không làm CT scan. Cuộc nghiên cứu này kéo dài 23 năm theo dõi. Những em
làm CT scan có nhiều rủi ro bị ung thư não gấp ba lần, và ung thư máu gấp bốn
lần.
Các chuyên
gia không đồng ý với nhau trong việc giải thích kết quả của cuộc nghiên cứu
khiến cho nhiều bệnh nhân đang lo âu. Tổ chức Radiology Society of North
America vẫn cả quyết rằng rủi ro gây ra bệnh ung thư vì làm CT scan rất nhỏ
so với những ích lợi mà kỹ thuật này giúp bác sĩ chẩn đoán
bệnh. Ông Mark Pearce, một trong những tác giả nghiên cứu về rủi
ro xảy ra cho trẻ em, thuộc trường đại học Newcastle University nói rằng;
"Mặc dầu rủi ro có thể là gấp ba lần, nhưng đó là gấp ba lần của một con số
rất nhỏ.”. Nhiều chuyên viên về quang tuyến, trong đó có cả bác sĩ
Smith-Bindman, biện minh cho lập trường của mình, và họ nói rằng việc dùng kỹ
thuật CT scan đã bị lạm dụng vì dễ sử dụng. Thậm chí, bệnh
nhân đòi yêu cầu phải cho đi làm CT scan, và bác sĩ không ngần
ngại cho đi làm CT scan chỉ vì sợ rằng mình có thể đã bỏ sót, chưa làm đầy đủ
mọi chẩn đoán.
Dầu sao
đi nữa, kết quả nghiên cứu cũng khiến cho các bác sĩ phải suy nghĩ lại trước
khi quyết định gửi người bệnh đi làm CT scan. Bác sĩ Smith-Bindman đề
nghị: "Chúng ta nên suy nghĩ lại và quyết định xem chúng ta có nên làm
việc nội soi cho bệnh nhân hay không, và việc nội soi đó có được chứng minh
là cần thiết cho bệnh nhân hay không.”
Lượng
Phóng Xạ cho mỗi lần làm CT scan phần ngực gây nguy hại tương đương với:
a.) 1,400 lần chụp hình răng bằng quang tuyến
X,
b.) 240 lần đi máy bay kéo dài 5 tiếng đồng hồ,
c.) 70,000 đi qua máy dò xét ở phi trường,
d.) 19 năm hút thuốc lá, mỗi ngày hút một gói 20
điếu.
Lấy đơn
vị đo phóng xạ mSv làm chuẩn: Mỗi lần chụp quang tuyến X phần ngực chỉ bị 0.1
mSv. Dùng CT scan sẽ bị 7 mSv phóng xạ
Bài tường trình
của Alice Park trên báo TIME
Nguyễn
Minh Tâm dịch
|
Sự Khác Biệt Giữa Vi
trùng (Viruses) Và Vi Khuẩn (Bacteria)
Sự Lây Lan Và Cách Phòng
Ngừa ?
Virus và vi khuẩn đều là
những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu.
Chúng ta nên biết rõ sự
khác nhau giữa virus và vi khuẩn để có cách phòng và điều trị bệnh hợp lý khi
bị bệnh do vi khuẩn hoặc virus gây ra.
1. Vi khuẩn là gì ?
Vi khuẩn thuộc loại đơn
bào, có ở khắp mọi nơi, chỉ một giọt sữa chua là có thể chứa 100 triệu vi
khuẩn. Hầu hết các vi khuẩn sinh sản bằng cách phân bào (một tế bào tách làm
đôi).
Vi khuẩn giữ vai trò
quan trọng trong quá trình tiêu hóa của người và vật, giúp hóa mùn cây cối và
súc vật chết, giúp cho tiến trình lên men hiệu quả.
Vi khuẩn có vai trò quan
trọng trong tái chế chất dinh dưỡng như cố định nitơ từ khí quyển và gây thối
rữa sinh vật khác.
2. Virus (Vi rút) là gì
?
Vi rút lớn lên và phát
triển chỉ khi chúng sống trong tế bào sống. Sống ngoài tế bào sống, vi rút sẽ
tự hủy diệt, không thể phát triển, trừ khi chúng sống trong tế bào động vật,
thực vật hay vi khuẩn.
Vi rút gây bệnh cho
người và vật, do thở hay nuốt vào, đột nhập vào lỗ hổng trên da.
Virus bao gồm vật liệu
di truyền (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi một lớp phủ bảo vệ của protein. Có khả
năng bám vào các tế bào và nhận được bên trong chúng.
Virus có thể xâm nhiễm
vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và vi
khuẩn cổ.
3. Sự khác nhau giữa vi
khuẩn và virus ?
(Chú thích: dấu + là Có,
dấu – là Không)
* Vi khuẩn
(Bacteria) - Gây viêm nhiễm nhưng diệt được
Vi khuẩn còn được gọi
là vi trùng, chúng hiện diện khắp nơi trong đất, nước và ở dạng cộng sinh
với các sinh vật khác. Một số là tác nhân gây bệnh và gây ra bệnh uốn
ván, thương hàn, giang mai, tả, bệnh lây qua thực phẩm và lao.
Một số nhiễm khuẩn có
thể lan rộng ra khắp cơ thể và trở thành bệnh toàn thân.
Bệnh do vi khuẩn lây
nhiễm qua tiếp xúc, không khí, thực phẩm, nước và côn trùng.
Vi khuẩn gây viêm nhiễm
nhưng diệt được mầm bệnh, bệnh do bị nhiễm khuẩn có thể trị bằng thuốc kháng
sinh, được chia làm hai nhóm là diệt khuẩn (bacteriocide) và kìm khuẩn
(bacteriostasis), với liều lượng mà khi phân tán vào dịch cơ thể có thể tiêu
diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn.
* Virus - Thuốc
kháng sinh vô tác dụng với virus
Vi rút chỉ có thể sống
và phát triển được khi xâm nhập vào bên trong tế bào của sinh vật khác (người,
động vật và cây cỏ) và khi ra khỏi ký chủ, vào môi trường ngoài (nước, không
khí…) chúng sẽ không sống được lâu.
Ngày nay, khoa học đã
phát hiện có khoảng 2.000 loài vi rút khác nhau, trong đó có khoảng 300 loài có
khả năng gây bệnh cho người như AIDS, viêm gan B và C, sốt xuất huyết,
bại liệt, bệnh dại, đậu mùa, cúm…
Khác với vi khuẩn, vi
rút đánh vào hệ miễn dịch của cơ thể nên điều trị bằng kháng sinh không có tác
dụng mà chỉ có thể chống lại bằng cách tiêm vaccin.
Riêng các loại vi rút
gây cúm, vì chúng biến chủng rất nhanh nên vaccin chế từ virus năm này lại
không hữu hiệu với cùng virus ấy cho năm tới. Vì thế các loại vaccin hiện có
không ngừa được virus cúm A (H1N1).
Khi thời tiết chuyển mùa
hay trở lạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để vi rút gây bệnh.
4. Tại sao thuốc kháng
sinh (antibiotic) không điều trị được bệnh do virus gây ra ?
Năm 1928, tại Bệnh viện
Saint Mary (London), Alexander Plemming phát hiện ra chất kháng sinh
(antibiotic) diệt khuẩn và đặt tên là penicillin.
Loại kháng sinh này được
tìm ra từ nấm Penicillium notatum. Sau đó có rất nhiều nhà nghiên cứu về kháng
sinh penicillin và đến năm 1943, dự án sản xuất penicillin được Chính phủ Mỹ
chấp nhận và từ đây kháng sinh penicillin chính thức ra đời, cứu sống được vô
vàn người mắc bệnh nhiễm khuẩn.
Từ penicillin, nhiều nhà
nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng sinh khác nhau và đã xếp chúng
thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ chế tác dụng đối với vi khuẩn.
Kháng sinh (Antibiotic)
đối với virut thì như thế nào?
Do cấu tạo virut hoàn
toàn khác biệt với tế bào vi khuẩn và nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh
bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào vi khuẩn chỉ là bộ gen (hoặc
DNA hoặc RNA) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, vì vậy được
gọi là "phi tế bào”.
Do cấu tạo đặc biệt đó
nên bắt buộc virut phải sống ký sinh bên trong tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm,
bởi vì virut không có hệ thống enzym hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng
lượng cho mình hoặc tự sinh sôi nảy nở được.
Do đó, để tồn tại và
phát triển thì virut phải xâm nhập vào trong các tế bào khác (tế bào túc chủ)
và "gửi” các vật liệu di truyền của mình.
Khi vào cơ thể, áo
protein bị loại bỏ, chỉ hoạt động bởi ARN hoặc ADN của nó, không có cách gì để
nhận biết. Hơn nữa, kháng sinh diệt được vi khuẩn vì vi khuẩn ký sinh ngoài tế
bào nên kháng sinh có thể diệt nguyên vi khuẩn, còn virut nằm trong vật chất di
truyền của tế bào túc chủ cho nên nếu kháng sinh diệt virut thì đồng nghĩa với
diệt cả tế bào của túc chủ (người hoặc động vật).
Vì vậy, nếu thuốc kháng
sinh muốn tấn công virut sẽ phải biết chọn lọc không tấn công vào các bộ phận
"tầm gửi” này (tức là không tấn công vào tế bào túc chủ) và đây thực sự là cản
trở cực lớn.
Hơn thế nữa, virut còn
có khả năng nằm ẩn mình vài năm trong tế bào trước khi phát bệnh.
Để thay vì dùng kháng
sinh không có tác dụng đối với virut, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công
một số thuốc diệt virut dựa trên cơ sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm
nhiễm, nhân lên trong tế bào túc chủ của virut.
Tuy vậy, virut luôn thay
đổi hình dạng và do đó luôn có khả năng kháng lại thuốc, đó là những điều bất
lợi cho việc dùng thuốc tiêu diệt chúng.
5. Virus và vi khuẩn lây
lan như thế nào ?
– Một người bị lạnh có
thể lây nhiễm vi khuẩn hoặc virus bằng cách ho hoặc hắt hơi.
– Vi khuẩn hoặc virus có
thể được lây lan bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác.
– Chạm vào thức ăn với
bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc vi khuẩn từ ngoài lây lan tới ruột.
– Lây qua dịch cơ
thể: như máu, nước bọt và tinh dịch, có thể chứa các vi sinh vật, ví dụ
bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục (đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng do
virus như viêm gan hoặc AIDS)..–
Virus lây lan theo nhiều
cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những
loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động
vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những
sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những vector.
Virus cúm lan truyền
thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus, nguyên nhân chính của bệnh
viêm dạ dày-ruột siêu vi, lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này
sang người khác thông qua tiếp xúc, cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức
ăn hay nước uống.
HIV là một trong vài
loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm
bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định,
gọi là "biên độ vật chủ” (host range); biên độ này có thể rất hẹp hoặc
rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây
nhiễm.
Sự xâm nhập của virus
trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm
nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vaccin, giúp tạo ra
miễn dịch thu được nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định.
Tuy nhiên, một số virus,
bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi, lại có thể
trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính. Đa phần các
chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù vậy cũng đã có những loại
thuốc kháng virus được phát triển.
6. Làm thế nào để
tránh nhiễm trùng ?
- Rửa tay
thật kỹ (thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm cúm).
– Bắt tay với người bị
cảm lạnh là nguy hiểm, do đó, tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó.
– Thức ăn phải được nấu
chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt.
– Rau và thịt phải được
lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt.
– Khi bị cảm cúm, hoặc
hắt hơi, sổ mũi cần chuẩn bị khăn giấy, khăn cá nhân để ngăn chặn đưa virus, vi
khuẩn ra ngoài môi trường. Cần luyện thói quen ho vào cánh tay áo (nếu không có
khăn giấy) và khạc nhổ vào giấy vệ sinh rồi gói lại cho vào thùng rác.
– Một số sinh vật bị
giết khi thức ăn được nấu chín, nhưng chúng vẫn có thể để lại các chất
độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa. Hạn chế ăn các thức ăn để
qua đêm, vì dù đun sôi, vi khuẩn có thể chết, nhưng độc tố gây bệnh do vi khuẩn
tạo ra trong thực phẩm vẫn còn.
– Việc sử dụng bao cao
su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục.
– Giữ phong cách sống và
tinh thần tốt để có hệ miễn dịch khỏe mạnh.
7. Một số bệnh do vi rút
gây ra và cách phòng bệnh
Tiêu chảy do vi
rút: Bệnh tiêu chảy mùa đông do Rota vi rút gây ra và thường chỉ kéo dài
trong 3 – 7 ngày. Khi bị bệnh thường có biểu hiện sốt nhẹ, hơi mệt, nôn, tiêu
chảy, ở trẻ em có quấy khóc… Người bệnh đi ngoài nhiều lần, phân lỏng, màu vàng
chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà, hoa cải. Là một bệnh
thông thường, nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn đến mất nước, mất điện
giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không được bù nước, bù điện giải kịp
thời.
Sốt do vi rút: Các
triệu chứng sốt vi rút điển hình là ban đầu sốt nhẹ khoảng 38 – 38,5 độ C, sau
đó bùng lên sốt cao đến 39 độ C hoặc cao hơn. Nhiều người đau họng, ho hắng
nhẹ, đau nhức mình mẩy, vã mồ hôi, mệt mỏi. Thường sau 5 – 6 ngày, bệnh sẽ tự
khỏi.
Về điều trị, chỉ cần
dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao, hoặc dùng các loại thuốc cảm để chữa triệu chứng
đau nhức, sổ mũi, ho… Ngoài ra nên súc miệng nước muối và nhỏ mũi thường
xuyên. Không nên dùng kháng sinh.
Sốt vi rút là bệnh dễ
lây, nhất là trong gia đình và công sở, nơi dùng điều hòa không khí. Do đó,
người bị sốt vi rút nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ em. Nếu
mệt nặng, nên nghỉ làm. Những người xung quanh nên phòng bệnh bằng cách nhỏ
nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức khỏe. Để cơ thể có sức
đề kháng tốt cần ăn uống phong phú, đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu như cháo,
súp… ngoài ra nên uống nhiều nước, nước lọc, nước hoa quả…
8. Cách phòng ngừa các
bệnh do vi khuẩn và virus gây ra
Bạn cần có một phong
cách sống lành mạnh, tinh thần tích cực để giúp hệ miễn dịch khỏe mạnh.
Vì khi hệ miễn dịch yếu
thì vi khuẩn hoặc virus nào cũng có thể tấn công bạn.
Bạn cần thực hiện 8
điều tốt sau đây nhé:
– Ăn tốt: đủ dinh dưỡng, cân bằng, hợp lý, tươi, sạch, an toàn,
– Uống đủ nước và đúng cách.
– Ngủ tốt: ngủ đúng giờ, phòng thoáng khí, đông ấm, hè mát, ngủ sâu
giấc.
– Tập tốt: Tập thể dục và vận động hàng ngày, để thúc đẩy quá trình trao đổi
chất và đào thải độc tố.
– Nghĩ tốt: suy nghĩ tích cực, lạc quan, để có sức khỏe tinh thần tốt.
– Môi trường sống tốt: xanh, sạch, đẹp.
– Học tốt: học các kiến thức chăm sóc, bảo vệ và phòng bệnh mỗi ngày.
– Làm tốt: Làm tốt công việc của bạn để có tài chính tốt đảm bảo cho bản thân
và gia đình.
__._,_.___