Tâm sự CHUYỆN MẤT, CHUYỆN CÒN - Bùi Tho -

Tâm sự
CHUYỆN MẤT, CHUYỆN CÒN

--------------------------------------------------------------------------

                                                        


     Gần đây, có dịp qua lại đường Nguyễn Hữu Cảnh, dựa tường xưởng Ba Son ngày xưa, là con đường nơi chốn phồn hoa, thỉnh thoảng thấy bày bán lan rừng, làm tôi nhớ lại một câu " Sài Gòn cái gì cũng có " Dĩ nhiên là lan rừng cũng phải có. Nhớ ngày nào, hình ảnh những giò lan được bày bán ở những Kiosque có tên có hiệu trên đường Nguyễn Huệ , đa phần là thành phầm chứ không bán mớ bán sô như bây giờ. Nhìn mớ lan bày bán đó, chính là lan rừng .Tôi cũng tự nhủ, tự an ủi, tự mừng cho ý nghĩ của mình " lan rừng của ta vẫn còn, rừng vẫn còn "
    Tôi sinh ra ở rừng vùng rừng thiêng nước độc, thấy rừng, hiểu biết về rừng rất sớm, tấm bé đã nghe tiếng chim kêu vượn hú, đã biết sợ hải trước rắn rết, cọp beo, …những con thú chỉ nghe tên mà chưa từng được thấy, do người lớn nói lại cho rằng dữ dằn đó, được che dấu bởi rừng.
    Riêng tôi, nhớ rừng hơn cả là từ những bụi lan, những bụi lan mà ngày đó chúng tôi thấy nó ra hoa và tỏa mùi thơm bất luận nơi đâu, bởi dân cư thưa thớt, làng mạc sơ sài, nhà cửa núp bóng cây rừng, mà cây rừng nào lại không có lan. Nói không ngoa có lẻ nhóm trẻ đầu tiên xứ này hái lan là chúng tôi, không phải là người khởi xướng, bởi chúng tôi bắt chước các anh chị sinh viên trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, do những lần vào xem đá banh thấy các bụi lan được giăng mắc làm đẹp theo các lan can nhà ngủ do các anh chị thu hái quanh vùng.
    Để rồi địa bàn hoạt động của chúng tôi vùng rừng thuộc trường Nông lâm mục, trước cái đình làng, dọc theo đường lộ, ở đó có những cây chò, cây giẻ. Thoạt đầu chỉ hái những cây quen thuộc thấy đươc hoa, như cây bá khế, bá tím ( bá có nghỉa là bám vào, một cây bám vào thân cây khác vì có dáng như trái khế gọi là bá khế, Còn bá tím là cây hoa cho bông màu tím) Cây giống sả gọi là lan sả , cây giống kim máy may nhỏ gọi là tiểu kim lan, lớn gọi là đại kim lan.. nôm na là như thế. Cây bá khê sau được gọi hoa lồng đèn vì chùm hoa tự lồng đèn, cuối cùng từ hình dáng hoa và màu sắc tựa thủy tiên nên có tên chính thức là lan thủy tiên. Cây lan sả thì gọi là trường kiếm….
Quá dễ để tìm hoa ngày ấy, vì màu trắng vàng của những chùm hoa, vì mùi thơm ngào ngạt giữa không gian tĩnh lặng và cũng có thể nhìn thấy những sợi rể trắng bám trên vỏ cây, tự nhiên như có một qui cách chọn lan của chúng tôi, cây nào thân có đốt, rể trắng thì cho hoa đẹp, sau này mới biết đó là lan thuộc giống Drendrobium. Cây quí nhất ở rừng Blao vẫn còn đứng vị trí hàng đầu hiện nay là Đại ý Thảo, còn có tên là Quần Tiên Hội tên này do ông giáo Huỳnh Cữu đặt khi thấy hoa của nó quá đẹp nên nâng nó lên hàng tiên với tên gọi đủ là Chư Tiên Quần Nghị có nghĩa các vị tiên hội nghị sau này chỉ còn gọi Quần Tiên Hội.
    Như chừng chúng tôi chỉ có hai ba mùa tìm kiếm lan nơi đó và cũng vào cuối năm chủ yếu để kịp dùng cho ngày xuân sắp đến. Một phần cũng vì hết lan và nơi đó người ta bắt đầu đắp đập chận nước, rồi dân định cư vào chặt phá cây gỗ để làm nhà, một phần phải theo cái học . Đành phải rời chỗ ở thân quen, rời sân chơi tuổi nhỏ, rời vườn trà, rời khu rừng cho lan quen thuộc để lên tận Di Linh .
    Nên rừng cây buồn, rừng cây rụng lá. Mất một mãng rừng, mất một mãng đời thơ ấu trong tôi?
Ở Di Linh, với rừng ở Sông Trao, rừng núi Lỡ, Rừng Trại Cùi, rừng Gia Bắc, rừng Lan Hanh đã ít nhiều lưu dấu những buổi lùng sục của chúng tôi, loại rừng vùng này khác với ở Blao, sắc mộc chính là giẻ và cà chí loại cây cho vỏ sần sùi là chỗ ở thích hợp của kiến với những loại lan đặc trưng là Nhất Điểm Hồng, Kim Điệp, Long Tu, Long nhãn và đặc sắc nhất là Dạ Hạc. Thật lòng mà nói lan như cỏ đâu đâu cũng có, trên cây, trên đá, trên đất với các loại Long Nhãn, Thạch Tùng, Tử Cán.. còn ở đầm lầy thì có Hạc Đỉnh, Trúc Lan..
    Từ giai đoạn 1958- 1960 việc chơi lan bắt đầu rỏ nét, một người chuyên đi rừng lấy lan xem như là nghề, nghe nói ông ta về cung cấp cho người mua từ Sài gòn, thời ấy người ta quen gọi là ông ba Lùn. Phần chúng tôi số lan hái được trong những buổi nghĩ học đều chuyển về nhà ở Bảo Lộc ba tôi đóng chậu, má tôi gùi bán cho người dân tại chỗ và cả khách qua lại Sài Gòn Đà lạt.
    Rồi chiến tranh bắt đầu như một xích khóa vô cùng uy lực, vô hình khóa cứng mãng rừng ngày nào nơi chúng tôi dong ruổi tìm lan, từ đó đổi cả cái hồn nhiên thơ ngây, để lo cho sự học, lo cho cuộc đời trai trẻ của trời chinh chiến,
    Vẫn biết rằng trên những thảm rừng ngày xưa theo chuyện của đất trời loài lan vẫn phát triển và xuân về vẫn nẩy lộc đơm hoa, riêng tôi không gì quí báu hơn, khi trở lại nhà vào những ngày cận tết còn được chăm chút những giò Thủy Tiên, Hoàng Phi Hạc hay Quần Tiên Hội dấu tích của rừng Bảo Lộc, đến Dạ Hạc, Long Tu, Kim Điệp xuất thân từ đồi núi Di Linh , nó còn ở đây, còn cho hoa đón tết đã trở thành bảo vật, là chứng tích ghi dấu tháng ngày thơ ấu của mình.
    Những khu rừng ngày nào, như như dần mất trong tôi không còn cho mình cơ hội rong chơi cũng như khó có cơ duyên nào nhìn thấy được một giò lan mọc tự nhiên trên núi ngàn nữa .
May thay ngành chơi lan xứ này dù khó khăn vẫn trên đà phát triển vì nhờ có một lực lượng hỗ trợ rất tích cực, đó là những anh em của núi rừng, người dân tộc Koho. Nhờ thế mà hầu như tất cả các chủng loại phong lan, địa lan thuộc vùng cao nguyên Lâm Viên, Di Linh được những người anh em của núi đồi tìm kiếm cung cấp cho các vườn lan cho các nhà nuôi lan nghiệp dư khắp xứ.
Rồi Quê hương im tiếng súng, niềm vui vỡ òa. Ở cái tuổi trung niên lại nhớ về thời thơ ấu nghĩ rằng sẽ có những ngày rảnh rỗi lội rừng thư giản tìm lan.
    Trong ngày tháng đầu khó khăn ấy lo cái ăn cái mặc, nào ai nói đến chuyện lan chuyện kiểng, vậy mà trong luc vắng nhà vì sợ chuyện bom chuyện đạn, những cây lan yêu quí tưng tiu bấy lâu nay không còn nữa, trong lúc hoảng loạn nguời ta lo cơm lo gạo lo bạc lo tiền, sao lại có người lại nghĩ đến bông hoa? Mình không giữ được thì người khác giữ giùm ,vui lòng như thế và trong tôi không còn nữa những dấu ấn ngày xưa, vì những giò lan đã mất.
    Đầu năm 1976 nhóm doanh nhân Sài Gòn ra tìm tôi với chủ ý là cùng cộng tác tư vấn cho việc lập hơp tác xã Nông nghiệp Đại Bình xây dựng mô hình kinh tế mới, tôi lại đạp rừng lần này là cánh phía nam, dưới chân núi Spung theo dòng suối Đại Bình, hình ảnh đã mất đi bao năm của những ngày đầu biết cây lan ở rừng Nông Lâm Mục như chừng sống lại, Thủy tiên, Hoàng phi hạc nở trắng rừng hoa thơm ngào ngạt, ngoài cái mục tiêu chính làm tìm đất mở mang nông nghiệp nhưng trong tôi nhem nhúm chuyện trở lại nơi đây với những giò lan đang mời gọi..
     Nào ngờ, vòng quay cuộc sống đã cuốn trọn mình vào trong đó, mãi cho đến đầu thập niên 1990 một tiếng ầm chấn động cả thị trấn Blao vào lúc 1 giờ chiều, đó là vụ lở núi Spung nghe nói đất trôi xuống tận suối Đại Bình và vùi lấp mất mấy người là câu trả lời của tự nhiên mà người anh em Koho gọi sự trả thù giận dữ của thần núi vì cây cối đã bị chặt phá tan hoang, mình mới sững sờ nhớ lại ngọn núi thâm u ngày nào sáng sương mù che khuất trưa mới thấy nguyên hình , giờ đây vì nhu cầu cuộc sống cây rừng đâu hết, dành cho vườn trà, vườn cà phê, và có cả nhà cửa đường đi lối lại, có nghĩa là mơ ước một ngày nào đó trở lại với những giò lan trong tôi vĩnh viễn không còn.
     Rừng núi mất, hoa lan cũng mất?.
     Rồi bất ngờ cuối năm đó, Trần văn Lâu người Hóc môn cùng học với tôi năm 1963, hơn ba mươi năm mới gặp lại, anh đi với một nhóm người Đài Loan và cho tôi biết mục đích của chuyến đi và nhờ tôi cộng tác việc thu mua hai loại địa lan Tử Cán và Hài, mua theo ký với giá 7.000 đồng đối với Tử Cán còn 14.000 đồng với Lan Hài. Trời ơi, tôi mới vở lẽ ra bây giờ hoa lan bán sô rồi, trước giờ mua bán lan chúng ta tính loài, tính từng giò , từng bụi, từng bông sao bây giờ rẻ rúm như vậy ?  Dĩ nhiên là giá đó giúp cho một số người có việc kiếm ra tiền dễ hơn tìm trầm, đãi vàng tìm đá quí. Điều đó chứng tỏ rằng ở nước ngoài người ta biết rằng lan rừng Việt Nam quý lan rừng Việt Nam còn, còn nhiều. Tôi đem chuyện này nói chuyện với vài nơi chuyên nuôi lan vùng này nhờ họ giúp, thì họ cười và nói " chuyện này xưa rồi, tôi đã đóng hang bao nhiêu tấn để chở đi rồi ông ạ ! " không lâu sau đó, cái phong trào hái lan rừng đặc chủng Việt Nam bán ra nước ngoài cũng dứt , để bắt đầu rầm rộ thời mở cửa với lan nhập nội của Thái Lan và cả của Đài Loan với nhiều chủng loại kể cả những loài giống như lan của mình hay lan của mình nhập lại ? Không rỏ người ta không mua nữa hay nguồn lan của mình không còn ?
     Tại Đà Lạt tự hào là thành phố hoa, trong đó hoa lan cũng là một thế mạnh, các nhà các vườn trồng lan được cung cấp đều đặn lan rừng từ những người anh em miền núi, ngoài ra họ còn bán trực tiếp trên hè phố phổ biến rộng rải cho du khách như một giới thiệu đặc sản địa phương.
Hiện nay, tại thành Phố Hồ chí Minh thấy xuất hiện bán lan mới thu hái ở vỉa hè, người bán cho biết gốc gác từ tây nguyên, từ Nghệ An, từ Tam Đảo, từ nước bạn Lào. Tại Bảo lộc cũng thế theo những chuyến xe Bắc Nam cũng được chở vào buôn bán xuất xứ cũng cho là ở Nghệ An, trên dãy Trường Sơn giáp giới với Lào, rồi cũng có nguồn cho rằng từ Đắc Nông Đắc lắc.. và nhiều thành phố khác trên đất nước này chắc cũng có bày bán, như thế có nghĩa là lan rừng ta còn rất dồi dào. Xét cho cùng nói là còn, nhưng phải khai thác từ xa, nơi ấy còn núi còn rừng, nơi ấy là ngặt nghèo là hiểm trở ?
    Trở lại chốn ở của mình đồi núi trơ huơ vì rừng không còn nên sông suối cũng cũng chết theo, từ những con suối gần gủi thân quen Đại Lào, Đại Bình, Đại Ròn, Đại Nga ngày nào bờ trải cát vàng, dòng nước trong xanh là nơi tắm giặt, nay chỉ còn một lạch nhỏ dòng nước lúc nào cũng ngầu đục, chắc cua cá chẳng còn.
    Cái thác nước Đam Rông có lẽ là thắng cảnh đầu tiên của Bảo Lộc phát hiện từ năm 1960 mới được dùng như một cảnh thiên nhiên, là nơi đón nhận của các cuộc trại thanh niên hay chỗ lui tới của học sinh trong những ngày nghỉ học, dòng suối không rộng, lượng nước không nhiều, khoảng năm 1980 vì nhu cầu điện đã ngăn dòng tich nước làm thuỷ điện, coi như dòng thác đã mất. Để rồi cho đến nay, hằng năm chỉ được sống lại trong những tháng mùa mưa, ai đó từng một lần ngắm khi còn hoang vu, hãy trở lại đây nhìn lúc thác chết khô hay lúc ào ào sống lại sẽ thấy thương thấy tiếc cho một cảnh quang được thiên nhiên ưu ái ban tặng.
    Đên thác Bobla của thị trấn Di Linh biết được từ 1958 do đồn điền trà Bobla thiết lập, trong chiến tranh bị bỏ hoang, Sau này có một đôi lần khai thác rồi cũng bỏ hoang. Cảnh quang nơi đây còn khá hoang vu , thuận lợi là sát bên quốc lộ, gần khu dân cư, nếu có một trạm dừng chân, một khu sinh thái chắc chắn sẽ là điểm đến của các tours lữ hành vì không gian vẫn còn, dòng nước vẫn trôi, thác nước vẫn đỗ , quí báu vô cùng vì nó là tác phẩm của thiên nhiên.
    Nói đến Gougah, chừng như vừa bị khai tử cách đây mấy năm bởi thủy điện Đại Ninh. Còn nữa Pongour hùng vĩ đến Pren và Cam Ly thơ mộng ngày nào bây giờ cũng giao động lúc ào ào , lúc rỏ rẻ lại còn thêm cái ô nhiểm làm cho khác nhàn du chỉ dám nhìn không còn vui đùa với dòng nước mát .
    Núi rừng không còn, thì chim chóc cũng mất, nào có lâu la gì mới đây thôi, đàn cưởng, đàn sáo, đàn cu đất, đàn két.. mỗi lần bay , tối trời, như một đám mây.Thời ấy ai mà chú ý đến chào mào, là loại háo ăn ổi, đu đủ, mít chín.. ngày đó người ta nuôi két, nuôi nhồng, nuôi cưỡng nuôi sáo tập cho chúng nói tiếng người. Chào mào bị bỏ quên, loài chim không giá trị, nó làm tổ khắp nơi, thường ở bụi lùm, có đôi có cặp, ngay cả trong các bụi trà thấp lẻ tè mà bọn trẻ chúng tôi phát hiện được tổ thì chỉ rón rén dùng tay bụm cửa tổ là có thể chộp được chim, xin lỗi cũng chỉ nhổ lông rồi nướng, nhai vài miếng. Ngày nay, chào mào tự nhiên lên hạng, giá trị một con có thể bạc chục triệu, việc nuôi chim là lối chơi thời thượng, ta vẫn thấy những cuộc thi tiếng hót chào mào của những nghệ nhân của những câu lạc bộ.
    Ở cái tuổi bảy mươi, tôi đang sống ở cái vùng trời mà tôi đã sinh ra, và tôi chỉ còn nhớ được từ những gì thấy những gì đã biết và đã sống trong khoảng 60 năm trở lại.
    Là cố tật hay thói quen của người Á Đông ? Ngày đó buổi sáng bị đánh thức bởi tiếng chim kếu vượn hú, nhìn mặt trời để tính giờ, ban đêm không dám ra khỏi nhà sợ cọp sợ heo rừng và cả rắn rết. Cái vùng trời ngày ấy sao to quá, mất một buổi để tắm suối Đại Bình hay suối Đại Lào hay loanh quanh trong làng, trong rừng cây của Nông Lâm mục, không phải là nó quá xa xôi, mà chính là phải đi bộ, rồi cảnh trí trên cây thì lan nở , dòng sông thì cát trắng, nước trong như bắt con người phải quẩn quanh quyến luyến? Sao những ngày thơ nó đẹp thế dù cuộc sống thiếu thốn nghèo nàn? Cái vùng trời ấy to lớn quá, thần tiên quá, bây giờ sao thấy nhỏ hẹp ? Dòng sông, đình làng, chùa, nhà thờ, cái trường xưa mình đi học, những con đường … vẫn còn. Mà mình thấy như đã mất ?
    Bảo lộc đang những ngày lập đông, những buổi sáng đôi lúc có sương mù trời gây lạnh. Theo vỉa hè cạnh quôc lộ gần đây lại thấy bày bán lan rừng, đúng thế, vì nhìn kỷ thì đủ loaị có tên tuổi như Thủy Tiên, Kim Điệp, Dạ Hạc, Ý Thảo.. đến những cây không biết tên, biết hoa hoặc hoa không đẹp, những loại mà ngày xưa chúng tôi không hái. Nay thì được hái tất được giới thiệu để bán. Người bán chủ yếu vẫn là các anh chị người sắc tộc Koho, xuất xứ lan là ở Bảo Thuận Di Linh,
******
    Lan rừng vẫn còn, nhưng cái còn nhỏ nhoi quá!
    Ngọn núi to lớn kia vẫn còn, nhưng chỉ là ngọn đồi trơ trọi.
    Các dòng sông suối vẫn còn , nhưng là lạch nước không trong, dòng sông nhỏ lại.
    Thác nước kia vẫn còn nhưng dòng chảy lúc ì ầm giận dữ, lúc khô trơ.
    Ngày cũ sẽ qua đi cùng Chuyện Mất
    Ngày mới sẽ đến, với chữ Thêm : Thêm tuổi, thêm con, thêm tiền tài, thêm sức khỏe…thêm công trình, thêm khu sinh thái, thêm một cây trồng, thêm một giống hoa….ước gì thêm mãi.
    Mong chuyện Còn của thiên nhiên, của núi, của rừng, của cây, của hoa, của ong bướm, của chim muông… sẽ mãi hòa theo cùng tháng ngày năm mới !

Bùi Tho