TÌNH CŨ
Tôi gọi là tình cũ bởi
vì mối tình mà tôi sắp kể cho các bạn nghe bắt đầu từ gần 50 năm trước, năm
1968 tức năm Mậu Thân, năm tôi mười tám tuổi.
Năm 1968, tôi học đệ
nhất tại trung học Nguyễn Trãi, trường nằm ở đường Trịnh Minh Thế, quận Tư, bên
Khánh Hội, đối diện với kho Năm của bến cảng Sàigòn.
Thông thường, tuổi mười tám là tuổi bắt đầu biết yêu, biết mơ mộng, tương tư
một tà áo, một ánh mắt, một nụ cười… Tuy nhiên, thú thật tôi là thằng cả quỷnh,
ngoài giờ đến trường, học, ôn bài vở ở nhà, tôi chỉ cắm cúi vào chuyện sơn,
cắt, dán mấy chiếc máy bay F-86 Sabre, F-100 Super Sabre, Phantom F-4,
Thunderchief F-105…theo các mẫu bằng các vật liệu nhẹ, trong khi các bạn cùng
lớp, cùng lứa tuổi hay đảo quanh các thư viện, các trường nữ trung học hoặc trường
tư thục có các nữ sinh tìm bạn gái hay còn gọi là đi "cua” đào.
Nhiều đứa trong lớp tôi đã có bạn gái, hẹn hò nhau đi coi ci-nê ở các rạp Rex,
Đại Nam, Casino Sàigòn hay đi ăn kem Phương Lan, hủ tíu Nam Vang Thanh Xuân,
uống nước mía Viễn Đông…
Riêng tôi vẫn sô-lô một mình trên chiếc Honda SS-67, thoảng có những phim hay,
do các tài tử nổi tiếng như Alain Delon, Jean Paul-Belmondo, Charles Bronson…
đóng như Le Samurai, Adieu l´Ami…tôi mới rủ thằng bạn thân nhất là Hải, tục gọi
Hải Dưới cùng đi coi cho vui.
Lúc đầu tôi cũng không hiểu tại sao Hải bị gọi là Hải Dưới, sau có thằng bạn
khác giải thích rằng Việt Nam chỉ có Hải Thượng Lãn Ông là Hải Trên, còn tất cả
những ai khác có tên Hải đều là Hải Dưới, nói xong nó ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Một vài thằng bạn khác ác miệng, thấy tôi hay đi cặp kè với Hải Dưới, gọi chúng
tôi là ... "bóng”. Tuy thế, tôi cũng như Hải thuộc loại ít nói, chịu đựng, mà
thế gian thường gọi là đần nên cũng không để ý những lời trêu chọc của bạn bè.
Gặp hai đứa tôi đi với nhau ngoài đường phố Sài Gòn, tụi nó cứ hay phá lên cười
rồi hỏi tụi tôi có đi xem phim mới ở rạp Vĩnh Lợi chưa? Sau này khi đã có bạn
gái rồi tôi mới hiểu ý lũ bạn tinh quái.
Chiến sự tại miền Nam đã bắt đầu gia tăng ở nhiều nơi từ năm 64, nhưng ở Sài
Gòn, chúng tôi vẫn bình yên với đời sống học trò.
Nhưng rồi mọi chuyện thay đổi khi vào đêm Giao Thừa tết Mậu Thân 1968, chiến sự
lại bất ngờ nỗ ra giữa thành phố thật ác liệt. Sài Gòn cũng là một mục tiêu
chính của quân đội Bắc Việt. Các khu vực Bình Triệu, Cây Quéo, Đồng Ông Cộ, Xóm
Mới, Chợ Lớn… chìm trong lửa đạn. Gia đình tôi ở trên đường Võ Di Nguy Phú
Nhuận, gần ngả ba Nguyễn Minh Chiếu, tương đối bình yên nên đón gia đình bác
Hiền, một người bạn của bố tôi từ Xóm Mới tản cư lên. Thế là tôi và Ngọc Dung
quen nhau.
Gia đình bác Hiền chỉ có ba người, hai vợ chồng bác với Toàn, anh con trai hơn
tôi ba tuổi và Dung. Ngọc Dung kém tôi một tuổi, gọi bác cả Hiền là bác ruột.
Gia đình Dung sống ở Nha Trang, gần cầu Xóm Bóng, Dung vào Sài Gòn trọ học,
chuẩn bị thi tú tài như tôi. Tuy kém tôi một tuổi nhưng Dung học rất giỏi, làm
đơn xin miễn tuổi lúc còn ở Nha Trang, học nhẩy lớp, đậu tú tài 1 ban B hạng
ưu. Nhờ học giỏi nàng xin được vào lớp đệ nhất ở Trưng Vương.
Bố mẹ tôi dành riêng cho gia đình bác Hiền tầng thứ hai trong căn nhà ba tầng
mua ít năm về trước, tôi phải dọn lên tầng trên cùng chỉ có một phòng duy nhất,
trước vốn chỉ dùng làm nhà kho. Nhà có 3 tầng nhưng chỉ có một nhà bếp, do đó
mẹ tôi thường phải nấu ăn sớm để có bếp cho bác Hiền gái nấu sau.
Từ ngày có gia đình bác Hiền đến tạm trú, tôi cảm thấy vui hẳn lên, Tôi bớt bận
bịu với những chiếc máy bay của mình mà hay lẩn quẩn bên Dung những buổi chiều
nàng đi học về, phụ bác Hiền gái nấu cơm.
Dung có khuôn mặt trái soan, da trắng, đẹp thùy mị, đoan trang, nhất là giọng
nói thật nhẹ nhàng, êm ái, ít người có. Vì vậy từ hôm Dung đến ở nhà tôi, lúc
nào cũng có một vài chiếc xe gắn máy đủ loại từ Honda, Suzuki tới Bridgeston…rề
rề theo sau những khi nàng đi học về.
Buổi tối ăn cơm xong, Dung thường lên lầu hai, nơi dành cho gia đình bác Hiền,
học bài, tôi hay kiếm cớ không giải được mấy bài toán lượng giác, đem lên hỏi
để được gần gủi nàng. Mỗi lần lên gặp nàng tôi đều pha hai ly cà phê sữa đá,
thứ mà Dung rất thích, một cho tôi, một cho nàng,
Có lẽ Dung cũng đoán biết ý đồ (đen tối) của tôi vì những bài toán nhờ nàng
giúp, đa số giải dễ dàng, thình thoảng mới có bài thật sự hóc búa. Tuy nhiên
nàng không hề phản đối hay tìm cách tránh né những lúc tôi lân la tìm cớ kề cận
bên nàng.
Tôi yêu Dung từ những ngày tháng đó. Tin tức chiến sự hàng ngày trên Radio,
trên báo chí, cảnh người dân từ nhiều nơi ở ngoại ô hay các tỉnh lân cận đổ vào
thành phố, gồng gánh chạy giặc, những khuôn mặt hớt hải, những ánh mắt lo âu,
những chiếc xe GMC chở đầy lính, trang bị vũ khí, phóng ào ào trên đường, tiếng
vần vũ của những chiếc trực thăng Cobra bắn những tràng đạn từ súng minigun mà
tiếng nổ rống lên từng tràng như những con bò không làm tôi quan tâm.
Hạnh phúc đầu đời trong tình yêu của tôi thật đơn giản, tôi cảm thấy tâm hồn
mình ngây ngất, bay bổng đi đâu những khi được ngồi gần bên Dung, ngửi mùi sà
bông Dove thoang thoảng từ người nàng toát ra, nghe giọng nói ngọt ngào, ngắm
nụ cười tươi với hàm răng trắng đều và đôi môi đỏ hồng tự nhiên.
Thấm thoắt Dung tạm trú ở nhà tôi đã được hai tháng, tình hình chiến sự đã tạm
lắng, khắp nơi. Cuộc tổng công kích tết Mậu Thân đã khiến nhiều binh sĩ của cả
hai bên phải chịu thương vong lớn và cả thường dân vô tội nữa . Cuộc chiến ngắn
ngày và thật bất ngờ này của phía bên kia không thành công, tuy nhiên họ cũng
gây được một tiếng vang trên thế giới khiến người dân Mỹ, nhất là những người
có thân nhân tham chiến tại Việt Nam bắt đầu lo âu về cuộc chiến tranh ở Việt
Nam.
Không biết Dung nghĩ thế nào về mình, tôi đem chuyện của Dung kể cho Hải Dưới nghe.
Hải không đần như tôi, nó xúi tôi rủ Dung đi chơi, đi coi ci-nê, nếu nàng đồng
ý là coi như em chịu đèn.
Tôi làm theo lời Hải. Tối thứ sáu, sau khi vớ vẩn, vờ vịt chuyện học hành một
lúc, tôi hỏi Dung:
-Mai em có rảnh không Dung?
Dung nhìn tôi, hơi ngạc nhiên:
-Mai thứ bẩy hả? Có chuyện gì không anh?
-Anh định rủ em đi chơi ngày mai để cám ơn em đã kèm toán cho anh bấy lâu nay.
Dung nhìn tôi mỉm cười, ánh mắt tinh nghịch:
-Em phải cám ơn anh mới đúng. Cám ơn anh đã pha cho em những ly cà phê sữa đá
thật ngon, giúp em tỉnh táo học bài tới khuya.
Nói xong Dung cúi mặt, có vẻ suy nghĩ, trong lúc tôi vẫn nhìn nàng chờ đợi vì
chưa có câu trả lời rõ ràng đi hay không. Độ chừng một phút sau, khoảng thời
gian tôi thấy dài như cả tháng, Dung mới ngẩng lên, gật đầu nhè nhẹ:
-Dạ! Nhưng anh phải xin phép bác Hiền cho em.
Tôi mừng quá, không dằn được chụp lấy bàn tay nàng:
-Cám ơn em! Sáng mai anh sẽ xin phép bác.
Dung để yên tay nàng trong tay tôi vài ba giây rồi ý tứ, nhẹ nhàng rút tay ra
khỏi tay tôi:
-Chiều mai từ 2 giờ em có thể đi chơi với anh, nhưng phải về trước 6 giờ để phụ
bác em nấu cơm. Bây giờ thì anh có thể đi nghỉ để em học bài tiếp nha.
Tôi đứng dậy, gấp lại mấy quyển sách, lòng rộn niềm vui:
-Mai hai giờ anh chờ em!
Dung nhìn tôi mỉm cười, gật đầu.
Ngày hôm sau trời nắng đẹp, lúc xin phép, tôi chỉ sợ bác Hiền không cho Dung đi
chơi với tôi nhưng không ngờ hai bác chấp thuận ngay, có lẽ cũng do quen biết
với cha mẹ tôi đã lâu. Riêng bố mẹ tôi tuy không theo Tây học, cũng không ngăn
cấm anh em chúng tôi trong vấn đề giao thiệp với bạn trai gái.
Tôi chở Dung ra Sài gòn trên chiếc Honda SS-50 màu đen. Ngồi một bên trên xe,
nàng rất giữ ý, kê một cái túi đeo vai nhỏ bằng vải giữa tôi và nàng, tay phải
đặt nhẹ lên hông tôi chứ không ôm. Dù vậy tôi cũng thấy rất hạnh phúc, sung
sướng vì là lần đầu tiên đi chơi với bạn gái.
Sau khi gửi xe, tôi và Dung đi bộ lang thang trên đường Lê Lợi, vào nhà sách
Khai Trí coi vớ vẩn vài quyển mới xuất bản, vào tiệm kem Phương Lan giải khát.
Ăn kem xong, tôi rủ Dung đi coi ci-nê, nàng có vẻ hơi ngần ngại nhưng rồi chiều
theo ý tôi, đồng ý vào rạp Rex coi phim The Thomas Crown Affair với hai tài tử
Steve McQueen và Faye Dunaway.
Lúc mua vé, Dung nhất định không để tôi trả
tiền, viện lý do là tôi đã trả tiền trong tiệm kem Phương Lan. Tôi đành chiều
theo ý nàng. Chiều thứ bẩy, phim hay nên rạp khá đông, hai đứa tôi vào rạp lúc
đang chiếu quảng cáo, giới thiệu các phim khác. Đứng trong bóng tối, Dung nắm
tay kéo tôi sát vào người nàng thì thầm vào tai tôi:
-Đứng đây một chút đi anh! Quen mắt với bóng tối rồi hãy tìm chỗ ngồi.
Sự va chạm nhẹ nhàng giữa hai thân thể, dù qua đôi ba lần vải cùng với mùi sà
bông Dove mà Dung hay dùng khiến tôi đê mê, ngây ngất. Tôi nghĩ thầm, có đứng
đây với Dung cả tháng cũng được.
Mấy phút sau, khi đã quen mắt, thấy ít ghế trống ở hàng trên cùng, tôi nắm tay
Dung đi lên. Lúc đặt người xuống, tôi cố ý ngồi sát vào nàng, hai bàn tay vẫn
không rời nhau. Dung nhìn tôi, mỉm cười không nói gì, không xích người ra như
những lúc ở nhà, luôn có khoảng cách giữa hai đứa.
Ngồi cạnh Dung mà hồn tôi bay bổng nơi đâu, phim diễn tiến thế nào tôi không
biết bởi mắt nhìn mà không thấy, tôi mê mải ngụp lặn trong thời gian hạnh phúc
bên cạnh Dung.
Không biết phim chiếu được bao lâu thì tôi thu hết can đảm, choàng tay phải qua
vai Dung kéo nàng vào người. Dung không phản đối, tựa đầu vào vai tôi.
Không dằn được cảm xúc, tôi quay mặt định hôn nhẹ lên má nàng thì đúng lúc Dung
quay mặt lại, thế là chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu đời.
Lúc ra khỏi rạp, Dung cười tinh nghịch hỏi:
-Anh thấy phim hay không?
Tôi cũng cười nheo mắt nhìn nàng:
-Anh không biết! Em thấy hay không?
Dung mỉm cười, mặt đỏ bừng:
-Mai mốt không đi coi ci-nê với anh nữa!
Tình cảm giữa tôi và Dung tưởng chừng sẽ kéo dài, không ngờ lại chấm dứt nhanh
chóng. Cuối tháng tư 1968, khi tình hình Sài Gòn trở lại vẻ yên ắng, quân đội
Bắc Việt buộc phải rời khỏi thành phố để bảo toàn lực lượng, mọi sinh hoạt
thành phố đã trở lại gần như bình thường, gia đình bác Hiền trở về Xóm Mới.
Buổi tối thứ hai đầu tuần, trước ngày Bác Hiền dọn ra, sau khi học bài, cầm hai
ly cà phê sữa đá, lên lầu tìm Dung, thấy nàng lay hoay sắp xếp đồ đạc cá nhân,
sách vở cho vào cái va-li ( valise ), tôi ngạc nhiên hỏi:
-Em làm gì vậy?
Dung cúi mặt trả lời, không ngước nhìn tôi:
-Mai em về lại Xóm Mới!
Tôi bàng hoàng, mải mê trong hạnh phúc, tôi không hề nghĩ đến chuyện lúc nào
Dung và gia đình bác Hiền sẽ dọn về lại Xóm Mới khi tình trạng giao tranh đã
chấm dứt trong thành phố.
Biết hai vợ chồng bác Hiền đang ngồi nói chuyện với bố mẹ tôi ở salon phòng
khách, tôi đặt hai ly cà phê xuống bàn, nơi tôi và Dung hay ngồi cạnh nhau,
tiến lại gần, định ôm Dung vào lòng nhưng nàng thấy tôi đến gần đã vội lảng ra
xa, nói nhỏ:
-Đừng anh! Hai bác thấy thì chết em!
Chỉ cái ghế nơi tôi thường ngồi, Dung nhẹ nhàng nhưng rất cương quyết:
-Anh ngồi xuống ghế đi! Em cho anh cái này!
Tôi làm theo lời Dung, ngồi xuống khuấy ly cà phê, nhìn nàng chờ đợi. Dung lấy
ra một bao thư không dán trong một cuốn sách đưa cho tôi. Mở ra, bên trong bao
thư chỉ là một tấm hình bán thân, trắng đen cỡ 6×9 của Dung. Tôi quay nhìn mặt
sau của tấm hình, Dung chỉ ghi vỏn vẹn mấy chữ "Thương tặng anh yêu, Ngọc Dung”
cùng với ngày tháng, chữ ký của nàng.
Tôi đẩy một ly cà phê về phía Dung:
-Em uống đi!
Dung lắc đầu, cố gắng đè nén cảm xúc, nhưng giọng nói có vẻ hơi run:
-Không! Tối nay em không uống cà phê! Anh về nghỉ đi, mai anh còn đi học. Rảnh
anh lên bác Hiền thăm em.
Biết Dung không muốn biểu lộ tình cảm lúc sắp chia tay, tôi lặng lẽ cầm hai ly
cà phê đứng lên về phòng mình. Tối hôm đó tôi mất ngủ bởi những hình ảnh chia
ly, những nghĩ ngợi xa xôi. Dù biết rằng Phú Nhuận – Xóm Mới chẳng xa gì cho
lắm, chỉ 15-20 phút xe gắn máy là tới, tôi vẫn có linh cảm sẽ mất Dung từ ngày
hôm đó.
Linh cảm của tôi đã không sai. Ngày hôm sau thứ ba, lúc đi học về, gia đình bác
Hiền đã dọn ra. Chiếc Yamaha-Dame với cái bửng màu xanh dương của Dung không
còn. Lầu hai nơi gia đình Bác Hiền và Dung ở thời gian qua đã được dọn dẹp sạch
sẽ. Mẹ tôi nói tôi có thể trở về phòng cũ của mình.
Tôi vẫn cố gắng đi học bình thường như trước nhưng tâm trí chỉ nôn nóng, mong
mau tới thứ bẩy sẽ xuống Xóm Mới tìm Dung.
Sáng thử bẩy, chưa 8 giờ, ăn vội đĩa bánh cuốn mẹ tôi mua ở đầu chợ Lò Đúc, tôi
lấy xe chạy xuống nhà bác Hiền. Hai bác đi vắng, chỉ có anh Toàn ở nhà. Thấy
tôi, anh Toàn có vẻ ngạc nhiên, mở cửa hàng rào cho tôi dắt xe vào sân:
-Vào đi Huy! Có chuyện gì quan trọng không? Bố mẹ anh đi vắng rồi.
Thấy chiếc Yamaha của Dung vẫn để trong phòng khách, nghĩ Dung có ở đó, tôi lắc
đầu:
-Dạ không! Em chỉ muốn xuống thăm Dung!
Anh Toàn lại tròn mắt nhìn tôi:
-Ủa? Dung không nói gì với em hết sao? Nó về Nha Trang hôm thứ năm rồi. Mẹ nó
bệnh nặng không người chăm sóc, có lẽ nó sẽ ở lại, học và thi cử ngoài đó luôn.
Tội nghiệp cho nó, Dung là con một, vào đây trọ học vì bố mẹ nó không hòa thuận
với nhau, đã li dị ở riêng. Nó thương cả hai người, không muốn làm mất lòng ai,
không muốn nhìn thấy những tranh chấp giữa bố mẹ nên mới tìm vào học ở Sàigòn.
Tôi bàng hoàng cả người mất mấy phút. Những ngày ở nhà tôi, anh Toàn và tôi
không nói chuyện nhiều với nhau nhưng có lẽ anh cũng biết tình cảm giữa tôi và
Dung. Anh nhìn tôi ái ngại:
-Anh có địa chỉ của Dung ở Nha Trang. Em có cần liên lạc, thư từ gì anh đưa
cho.
Tôi cố gắng bình thản để giọng nói không run:
-Dạ thôi! Chắc thế nào Dung cũng viết thư cho em!
Nói xong tôi chào anh, dắt xe ra về lòng thầm nghĩ, nếu – Dung yêu và nhớ tôi,
Dung sẽ viết thư cho tôi. Tuy nhiên tôi cũng tự trách mình, yêu Dung nhưng tôi
hoàn toàn không tìm hiểu, hỏi han, không biết gì về gia đình nàng. Tôi mặc
nhiên coi Dung như con bác Hiền, tôi đúng là một thằng đần.
Những tháng ngày sau đó, tôi cố gắng vùi đầu vào chuyện học hành, gạt bỏ hết
mọi chuyện, quên đi hình ảnh của Dung vì ngày thi sắp đến. Cũng may là năm đó,
tôi đậu tú tài 2 với hạng bình thứ. Bố mẹ tôi có vẻ hài lòng, muốn lo cho tôi
đi du học tự túc ở Canada sau khi tôi thi vào trường kỹ sư Phú Thọ không đậu,
nhưng tôi từ chối, tỏ ý không muốn đi ra ngoại quốc. Chính bản thân tôi lúc đó
cũng không hiểu rõ lý do tại sao.
Ở lại Sài Gòn, tôi ghi danh SPCN ở đại học khoa học. Xa mặt thì cách lòng, thật
đúng như thế, nỗi buồn vì xa Dung khuây khỏa dần, phần không gặp gỡ, không nhận
được thư từ, tin tức gì của Dung, phần chương trình SPCN quá nặng, tôi không
còn tâm trí đầu nghĩ đến chuyện khác.
Cuối tháng sáu 1968, chính phủ VNCH ban hành lệnh Tổng Động Viên. Đa số bạn học
của tôi, những người sinh năm 1949-1950 không có tú tài 2 đều phải trình diện
nhập ngũ vào cuối năm đó.
Tôi học gần hết năm dự bị SPCN thì bạn bè Nguyễn Trãi, nhìn lại chẳng còn gặp
được mấy đứa, hầu hết đã nhập ngũ theo lệnh tổng động viên, đứa đang ở quân
trường, đứa đã ra đơn vị, khắp các binh chủng. Mấy thằng còn lại đang rủ rê
nhau gia nhập vào không quân, hải quân…với hy vọng được đi Mỹ du học.
Khi tin tức chiến sự ngày càng tăng, những cảnh biểu tình của sinh viên với
phong trào đòi tự trị đại học bị giật dây bởi đám sinh viên cánh tả khiến tình
hình chính trị miền Nam càng lúc càng xáo trộn, rối rắm làm tôi hoang mang và
bắt đầu chán chuyện học hành, sách vở. Một buổi chiều tháng sáu, đang nằm nhà
chờ kết quả thi viết chứng chỉ SPCN thì Hải Dưới chạy chiếc Honda S-90 màu đỏ,
ghé rủ đi nhậu.
Tôi theo nó vào trong Chợ Lớn, ngã sáu Nguyễn Tri Phương, đến một quán nhậu nằm
trên cái sân trải đá xanh nhỏ tiếp giáp lề đường, sát ngang hông tường một
trường học Tàu.
Hai thằng làm hết sáu lon bia Budweiser, bốn hột vịt lộn và chừng chục thau
nghêu với bánh tráng nướng. Lúc sương sương rồi, Hải cho tôi biết nó rủ tôi đi
nhậu để từ giã. Nó đã nhận được giấy báo thứ hai tới nhập ngũ theo học khóa 21
sĩ quan hải quân Nha Trang, đơn tình nguyện nộp từ mấy tháng trước, thủ tục
khám sức khỏe cũng đã xong.
Vậy là thằng bạn thân nhất cũng sắp xa tôi. Hải cũng cho biết không quân đang
tuyển sĩ quan phi hành và không phi hành, khuyên tôi nên kiếm đường binh trước
cho ngon lành, chờ tới lúc có giấy gọi trình diện thì chỉ có vào trường bộ binh
Thủ Đức.
Mấy ngày sau, giấu bố mẹ, theo lời Hải, tôi đến cổng Phi Long phi trường Tân
Sơn Nhất xin mẫu đơn gia nhập không quân rồi lặng lẽ điền đơn, chụp hình,
photocopy bằng tú tài 2, giấy khai sanh, thẻ căn cước…đem nộp thẳng tại văn
phòng tuyển mộ.
Ước nguyện tôi ghi trong đơn là mong muốn trở thành phi công khu trục tức chiến
đấu cơ. Ước muốn này trước đây, thỉnh thoảng cũng hiện lên trong suy nghĩ của
tôi nhưng không mãnh liệt cho lắm.
Đến lúc nhận được giấy báo đi khám sức khỏe của ban tuyển mộ tôi mới cho bố mẹ
tôi biết. Có lẽ biết rằng dù tôi có tiếp tục học nữa thì trước sau cũng phải đi
lính bởi tôi đã có hai anh trai du học ngoại quốc, tôi được hoãn dịch chỉ vì lý
do học vấn nên bố mẹ tôi cũng không phản đối, la rầy.
Khám sức khỏe xong. Kết quả tốt, tháng tám năm 1969 tôi được đưa đi học quân sự giai đoạn 1, tám tuần lễ ở trung tấm huấn luyện Quang Trung. Hết giai đoạn 1, được mấy ngày phép về nhà chờ đi học giai đoạn 2, tôi nhận được thư của Dung từ Mỹ gửi về. Lá thư khiến tôi ngỡ ngàng không tin được mắt mình.
Dung không viết nhiều, chỉ vắn tắt cho biết, sau khi về Nha Trang được hai tuần
thì mẹ nàng chết. Không còn phải thấy cảnh lục đục giữa bố mẹ, nàng về sống với
bố và thi đậu tú tài 2 tại Nha Trang với hạng tối ưu.
Với hai bằng tú tài ưu hạng, Dung được một học bổng qua Mỹ học về điện tử và
lên đường vào cuối tháng tám năm ngoái.
Đau buồn vì tang mẹ và không muốn để tình cảm nam nữ chi phối, ảnh hưởng chuyện
học hành khi hai người ở cách xa nhau, đồng thời tránh cảnh buồn bã lúc chia
tay chưa biết bao giờ gặp lại, Dung quyết định không gặp tôi trước khi đi Mỹ.
Hơn một năm sau khi thấy lòng đã bình yên, nàng mới viết thư cho tôi, chúc mọi
sự tốt đẹp và khuyên tôi nên quên nàng đi.
Bên ngoài bao thư có tên người gửi, thành phố nhưng không có số nhà, tên đường,
số vùng.
Tôi gấp lá thư lại, nhét vào một cuốn sách. Một cảm giác bâng khuâng, trống
vắng lẫn tiếc nuối len vào người, kéo dài cả mấy ngày sau đó. Khi vào quân
trường Thủ Đức với tám tuần lễ huấn nhục, cảm giác đó mới chấm dứt.
Gần hết giai đoạn 2 quân sự, tôi được rút về bộ Tư Lệnh Không Quân trước khi
Thủ Đức mãn khóa. Những năm tháng sau đó, học Anh ngữ, đi Mỹ học bay, ra đơn
vị, rồi hành quân liên tục với những ngày bay bổng có khi tới 8 tiếng đồng hồ
trên phi cơ…tôi bị cuộc sống cuốn hút đi.
Những mối tình vụn vặt, ngắn ngủi với
những người đàn bà gặp gỡ ở các phi trường, căn cứ đóng quân không để lại cho
tôi nhiều kỷ niệm, nhưng hình ảnh của Dung cũng mờ nhạt dần trong tâm trí, tôi
hầu như quên bẵng mối tình đầu.
Tháng tư 1975, tôi bị kẹt lại không di tản kịp khi Hà Nội giải phóng miền Nam.
Đi tù gần 5 năm, trở về được ít tháng, bố mẹ tôi tìm đường cho tôi vượt biên.
May mắn tàu tôi tới Thái Lan không bị hải tặc. Nằm trên đảo chưa tới 6 tháng,
với những giấy tờ, bằng cấp còn giữ, tôi nhanh chóng được định cư ở Mỹ.
Năm 2005, một buổi chiều khoảng 4-5 giờ, gần tan sở nhưng tôi còn đang làm
việc, con gái tôi lúc đó 15 tuổi, gọi điện thoại nói tôi về nhà chở nó đi bác
sĩ gấp, cả người nó bị nổi allergy đỏ (dị ứng da) và ngứa không chịu nổi. Tôi
phải bỏ dở công việc, lái xe ngay về nhà. Trong lúc lái xe, dùng GPS (hệ thống
định vị) kiếm bác sĩ da và Allergist (chuyên gia về dị ứng học), thấy tên Dr.
Nancy Luong chỉ cách nhà khoảng 3 miles, tôi liền gọi điện thoại báo trước.
Lúc làm thủ tục nhận bệnh nhân ở quầy reception (quầy tiếp nhận), thấy tấm bằng
chuyên khoa Allergology (khoa dị ứng học) ghi Luong Ngoc Dung Nancy treo trên
tường, dù biết tên họ trùng là chuyện bình thường, nhưng tôi vẫn có cảm giác
nôn nào kỳ lạ muốn gặp ngay người bác sĩ này.
Chờ khoảng 30 phút con gái tôi được gọi vào khám. Cánh cửa phòng khám vừa mở
ra, nhìn vào trong tôi nhận ra ngay người nữ bác sĩ tên Nancy Lương chính là
Ngọc Dung của tôi ngày trước, dù thời gian đã làm khuôn mặt nàng già đi rất
nhiều. Tuy nhiên tôi yên lặng, không lộ cử chỉ khác lạ để tỏ vẻ quen biết nàng.
Không biết Dung có nhận ra tôi không? Trời ơi! 37 năm tôi mới nghe lại giọng
nói của Dung, hơi khàn đi theo thời gian những vẫn ngọt ngào như ngày nào khi
nghe nàng khám, hỏi bệnh con gái tôi. Cử chỉ của Dung, từ vạch áo coi những chỗ
nổi mề đay, mẩn đỏ trên da, hỏi từng chi tiết rõ ràng trước khi bị allergy ăn
uống thứ gì, đến đo huyết áp, chích cho nó một mũi cortisone đều rất dịu dàng,
từ tốn.
Khi xong mọi chuyện, trao cho con gái tôi một vỉ thuốc antihistamine (thuốc
chống ngứa do dị ứng), Dung mới quay sang nhìn tôi, mỉm cười:
- Con gái anh Huy hả? Cháu đẹp quá! Giống anh ghê. Anh để cháu nằm đây độ một
giờ để em coi cháu có bị nặng hơn không? Anh ngồi đây với cháu chờ em một chút.
Em còn hai người khách nữa, khám xong em sẽ nói chuyện với anh. Nói xong nàng
đi qua phòng khám bên cạnh bằng một cánh cửa thông nhau.
Đến lúc đó tôi mới biết Dung cũng đã nhận ra mình sau 37 năm dài không gặp lại.
Con gái tôi cũng ngạc nhiên khi thấy Dung biết tên tôi. Nó hỏi tôi:
- Bố quen bà bác sĩ này hả?
Tôi gật đầu cười, thì thầm vào tai nó. Nó tròn mắt nhìn tôi:
- Really?
Nói nửa tiếng nhưng cũng phải 40 phút sau Dung mới quay lại với bố con tôi.
Vạch áo nhìn lưng, bụng, khám lại cho con gái tôi thêm lần nữa Dung nói:
- Bớt sưng, bớt đỏ nhiều rồi đó cháu! Không có gì phải lo nữa. Cháu bị bệnh này
gọi là contact allergy (dị ứng thứ phát). Cháu còn thấy ngứa không? Nhớ đừng có
ăn tôm, cua, đồ biển hay rờ, chạm vào những thứ đó nữa nghe cháu. Vỉ thuốc cô
đưa hồi này, về nhà thấy ngứa uống ngay một viên nghe, không ngứa thì thôi.
Con gái tôi lắc đầu:
- Dạ! Bớt nhiều lắm rồi cô!
Đến lúc đó Dung mới quay sang tôi:
- Anh qua đây lâu chưa?
Thấy tôi nhìn đồng hồ, Dung hiểu ý:
- Đã 7 giờ hơn, em cho thư ký đóng cửa phòng mạch rồi. Giờ mình có thể nói
chuyện với nhau. Thường em đóng cửa phòng mạch lúc 6 giờ. Hôm nay có thêm cháu
với hai bệnh nhân nữa nên mới đóng trễ đó.
Thấy tôi và Dung gọi nhau bằng anh em, con gái tôi tế nhị đứng lên:
- Cháu ra ngoài phòng chờ nghe cô!
Dung gật đầu, con gái tôi liền bước ra ngoài, lịch sự khép của phòng khám lại.
Chúng tôi ngồi đối diện với nhau, nhìn nhau im lặng thật lâu, mãi lúc sau tôi
mới lên tiếng:
- Nhanh quá Dung nhỉ, mới đây mà đã 37 năm rồi. Anh không ngờ gặp lại em. Lúc
mới vào phòng mạch, thấy tên em, anh có cảm giác nôn nao lạ lùng lắm dù biết
rằng tên họ giống nhau rất nhiều. Hơn nữa hồi em đi du học, anh nhớ rằng em nói
đang học về điện tử.
Dung gật đầu:
- Em học điện tử hai năm đầu, năm thứ ba mới đổi sang y khoa. Em đổi sang y khoa
cũng có nguyên nhân, để hôm nào rảnh em kể anh nghe.
Thấy cả hai bàn tay Dung không đeo nhẫn, tôi hỏi:
- Gia đình em ra sao? Em được mấy cháu?
Dung nhìn tôi lắc đầu, nhìn lên cái đồng hồ digital treo trên tường có cả ngày
tháng rồi mới nói:
- Em có một đời chồng người Mỹ, cũng là bác sĩ, anh ấy chết cách đây năm năm hơn
rồi. Em không có đứa con nào hết. Hiện em sống một mình, nhiều lúc cũng thấy
trống vắng, buồn dễ sợ, nhất là những ngày cuối tuần hay ngày lễ. Ngày thường
công việc của bác sĩ cũng bận rộn nhiều, do đó nhiều lúc em thấy sợ cuối tuần
lắm.
Lòng tôi chợt rộn lên một niềm vui khi nghe Dung nói vậy. Tôi mỉm cười nhìn
nàng âu yếm. Thấy ánh mắt và nụ cười của tôi, Dung ngạc nhiên:
- Đời em buồn quá, có gì đáng cho anh cười?
Tôi lắc đầu, xoay xoay hai bàn tay trước mặt nàng. Dung chợt hiểu:
- Anh ly dị vợ hả? Bao lâu rồi?
Tôi gật đầu:
- Cách đây hai năm. Anh có hai đứa con, con trai lớn hiện là kỹ sư điện ở Chicago,
còn con Jennifer đang sống với mẹ nó. Chỉ lúc nào cần gì như đưa đi bác sĩ bất
ngờ như hôm nay nó mới gọi cho anh hoặc anh muốn đưa nó đi chơi đâu thì phải
gọi hay plan (lên lịch) cho nó biết trước. Anh cũng đang sống một mình.
Tôi thấy mắt Dung sáng lên một niềm vui. Nàng cười nhẹ:
- Vậy anh có định rủ em đi ăn kem Phương Lan ngày thứ bẩy này không?
Tôi lắc đầu:
- Không! Anh chỉ muốn rủ em đi coi phim The Thomas Crown Affair mới được quay
lại năm 1999 với Pierce Brosnan và Rene Russo đóng vai chính, nhưng không biết
rạp nào chiếu và cũng không biết em còn chịu vào ci-né với anh nữa không? Tuy
nhiên nếu em thích, mỗi ngày anh sẽ pha cho em một ly cà phê sữa đá.
Cả hai chúng tôi cùng cười nhìn nhau âu yếm.
---------------------------