Sáng tác cuối
cùng trước khi tác giả lìa đời…. Bài dài nhiều tình cảm, xin dành thời giờ để đọc... Tác giả là 1 học sinh Trịnh Hoài Đức kế bên
trường NLS Bình Dương.
****
Xứ Búng Ngọt
Ngào
Nguyễn Công
Tế
(Viết để nhớ
về Búng và gởi các bạn từ xa tới Búng trọ học
xem có ở
trong trường hợp giống tôi không)
Quê hương là gì?. Có người bảo quê hương
là nơi mình được cha mẹ sinh ra ở đó, nghĩa là nơi nào mình được sinh ra, nơi
đó là quê hương của mình. Nhưng cũng có người nói: Quê hương là chỗ cha mẹ mình
chết và mai táng ở đó. Riêng đối với tôi, cả hai trường hợp trên đều không
đúng, mà đối với riêng tôi, quê hương là chỗ tôi có nhiều những kỷ niệm êm đềm
nhất, có nhiều người thân yêu nhất, nơi đã ghi vào hồn tôi những hình ảnh thân
yêu không thể phai mờ, và cho tôi một cuộc sống an bình nhất. Vâng, tôi có một
quê hương thân yêu, cho dù tôi đã được sinh ra ở miền Bắc Việt Nam, đã sinh sống
ở nhiều nơi, từ Bắc, Trung, Nam và ở cả vùng Nam bán cầu là xứ Úc Châu nầy đã
nhiều năm, có lẽ còn lâu hơn ở Việt Nam nữa, nhưng chỉ có xứ Búng, Bình-Dương
là quê hương của tôi, mặc dầu tôi chỉ ở đó khoảng 10 năm thôi. Mời các bạn cùng
tôi ôn lại vài kỷ niệm thân thương đã cột chặt tôi vào cái xứ Búng nầy. Khởi đầu
là trường Trịnh-Hoài-Đức.
Trịnh-Hoài-Đức là một trường công lập lớn nhất
tỉnh Bình-Dương, nhưng lại xây dựng ở Búng, sát quốc lộ 13, cách Bình-Dương khoảng
6 cây số và cách chợ Búng chừng hơn cây số. Đây là một vùng quê một trăm phần
trăm. Người dân ở đây chuyên sống về nghề nông. Đất đai nông nghiệp được chia
làm hai loại , đất bưng và đất giồng. Đất bưng là những vùng đất gần nhưng sông
lớn, có kinh, lạch dẫn nước thủy triều vào, nên đất bưng thường được lập vườn,
khai mương, trồng cây ăn trái. Tuy cùng là nhà nông, nhưng vườn cây trái thường
trù phú, cây lành trái ngọt nhiều, nên người dân ở vùng bưng có vẻ "mượt
mà" hơn, công viẹc ít tấp nập hơn. Nếu lấy quốc lộ 13 làm chuẩn, đứng ở chợ
Búng nhìn về Bình Dương thì vùng đất bưng nằm về phía tay trái.
Ngược với đất bưng là đất giồng. Xưa kia những
vùng đất nầy chỉ trồng lúa, mỗi năm làm một vài vụ và thường làm với phương
cách con bò đi trước, cái cày theo sau nên có mòi vất vả . Sau nầy, ngoài vụ
lúa chánh, nông gia còn tỉa thêm hoa màu phụ như dưa leo, mướp khía, củ sắn nước...
nên công việc càng tấp nập thêm, nhưng thu nhập cũng khá hơn. Xưa nhờ nước trời
tưới lúa, sau người dân đào giếng để cất nước lên tưới. Nhiều gia đình có máy
tưới nên công việc cũng đỡ nặng nhọc hơn.
Nhìn chung ta thấy xứ Búng có những điểm rất
đặc biệt, dễ thương. Chẳng hạn vào khoảng tháng 5-6 là mùa trái cây, có hằng hà
sa số trái cây thơm ngọt, như mít tố nữ, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt... Đó
thường là sản phẩm của đất bưng. Vào những tháng khác thì có những trái cây
khác của vùng đất giồng như mít, vú sữa, xoài... Nói tóm lại, mùa nào thứ đó,
Búng có đầy đủ những thứ thơm ngon đầy quyến rũ lòng người.
Những trái cây thơm ngon ở miền Nam thường
thì rất nhiều nơi có. Nhưng có một sự ngọt ngào, êm ái tuyệt vời của người xứ
Búng, chắc rằng khó có đâu sánh bằng.
Tuy sống rất cần cù, vất vả, hầu hết về tiền
bạc mọi người sống rất eo hẹp, nhưng người Búng lại có tấm lòng bao dung, rộng
lượng vô biên ! Nhất là đối với học sinh từ mọi nơi tụ về học ở Trịnh-Hoài-Đức.
Trịnh Hoài Đức là một ngôi trường quá lớn,
có từ lớp Đệ Thất tới Đệ Nhất, tổng cộng vài ngàn học sinh thì cái xứ Búng nông
nghiệp nầy làm sao có đủ học sinh cho trường. Vì thế số học sinh từ các nơi đổ
về đây học đông hơn hẳn số học sinh của xứ Búng. Vậy mà hầu hết số du học sinh
tới Búng trọ học đều được ở miễn phí. Ở hết năm nầy qua năm khác, hết tốp nầy
qua tốp kia, không ai làm lợi gì cho chủ nhà, mà không bao giờ có điều tiếng xấu
gì cả. Có một điểm rất đặc biệt là một tốp học sinh đang trọ học ở một nhà, nếu
có một người nào đó muốn đi nơi khác, rồi một vài tuần hay vài tháng trở về lại,
chủ nhà vẫn coi như không có chuyện gì xảy ra.
Tôi là một thằng bé Bắc kỳ 9 nút ( 54 ),
đang học ở trường công lập Phan-Bội-Châu ở Phan-Thiết. Khi gia đình chuyển về Bến
Cát, tỉnh Bình-Dương , tôi xin vào trường trung hoc THĐ học. Ngày học đầu đối với
tôi thật vô cùng "kinh dị". Mọi người nói giọng hoàn toàn khác. Tôi
nói đi "về" thì họ nói đi "zìa", tôi nói "ăn" thì
họ nói "ăng". Tuy đã có nhiều năm sống với người miền Trung ở
Bình-Thuận, Phan-Thiết, nhưng ở ngoài đó tôi có nhiều người đồng hương nên
không cảm thấy lạc loài. Vậy mà chỉ hơn một tuần sau tôi đã trở nên thân quen với
cái thế giới xa lạ đó. Các bạn tôi ai cũng nhìn thấy tôi rất khác họ. Nhưng với
bản tính hiền lành của người miền Nam, họ thực sự muốn gần và giúp đỡ tôi. Tôi
cảm thấy an tâm và yêu đời.
Qua 7 năm học ở đây tôi mến thương mọi người
mà cho đến nay nghĩ về họ tôi vẫn bồi hồi, xúc động...
Tôi lại muốn khoe với các bạn về cái xứ Búng
ngọt ngào của tôi: gia đình chúng tôi có 8 người, gồm 5 trai là Vùng, Môn, Nam,
Bảo, Tế và 3 gái là Mừng, Trai, Phượng. Chúng tôi là những người ở xa tới Búng
trọ học. Thật là một duyên may trời sắp xếp, kẻ Bắc, người Nam lại qui tụ thành
một gia đình. Chúng tôi ở chung, góp gạo, góp tiền mua đồ ăn, củi ... tự nấu nướng
như một gia đình. Thương yêu nhau như ruột thịt, ở chung bao nhiêu năm mà không
bao giờ có một vẩn đục giận hờn... Lại thêm bà Năm, chủ nhà thật tuyệt vời. Bà
chỉ có một mình ở cái nhà quá lớn ngay cổng trường nữ trung học THĐ. Còn các
con bà đã lớn, ở riêng cả . Bà cho chúng tôi ở và cho chúng tôi mọi tự do như
nhà mình . Sau nầy cứ gặp người nào ở ngoài đời tốt bụng với tôi, tôi đều nói họ
là người xứ Búng của tôi.
Tôi tin rằng các bạn từ xa đến xứ Búng học đều
có được những cảm tình nồng hậu và tình yêu thương tuyệt vời mà người Búng dành
cho mình, nên lòng biết ơn sẽ không bao giờ phai lạt.
Môt điều in đậm nét trong hồn tôi mà xứ Búng
đã ban cho tôi, tôi biết chắc là nếu có linh hồn, tôi sẽ đem món quà này về bên
kia thế giới khi tôi ra đi. Đó là Búng đã cho tôi một bà mẹ thật đúng nghĩa, thật
tuyệt vời.
Đó là bà "Cô Ba" của người bạn
cùng lớp, tên Nam. Một bữa kia Nam dẫn tôi về thăm cô Ba nó. Từ chỗ chúng tôi
trọ học tới nhà "Cô Ba", tức là từ ấp Thạnh-Bình tới ấp Thạnh-Phú, gần
cầu Móng, cách vài cây số. Ngày gặp cô lần đầu cũng là ngày định mệnh. Gặp Cô,
bà vui vẻ, niềm nở ra mặt (lúc nầy tôi đã nghe tiếng Nam giỏi rồi , nhưng giọng
tôi còn "Bắc Kỳ" quá nên có nhiều khi muốn nói chuyện với bà tôi lại
mắc cỡ không dám nói). Bà đem trái cây nhiều thứ cho chúng tôi ăn, rồi dẫn đi
vòng vòng trong vườn. Khi về, bà còn đưa một túm để cho tôi đem về . Bà bảo:
"Khi nào rảnh mầy cứ tới đây chơi. Có thằng Nam cũng được mà không thì
mình mầy tới ".
Thế rồi ngày tháng trôi mau, tôi cũng không
nhớ mình ra vô nhà Cô Ba bao nhiêu lần nữa, nhưng nhớ có lần cả "gia
đình" học trò chúng tôi kéo tới nhà Cô Ba, trừ mấy đứa con gái. Đứa nào tới
đây, bà cũng đối xử ngọt hơn nước dừa, trái cây xứ Búng. Có một thời gian tôi
đã tới nhà Cô Ba ăn dầm nằm dề ở đây để đi học mà không hề đưa cho bà một đồng
bạc để mua thêm đồ ăn mà bà hoàn toàn vui vẻ , không nói một lời nào . Bây giờ
mỗi khi nghĩ lại tôi đều tự hỏi: "Sao lại thế được , sao hồi ấy mình ngu vậy ?”
Ngày tháng qua đi. Tôi thi đậu, ra trường rồi
bị động viên vào lính. Đến lúc hết chiến tranh , sau gần sáu năm đi tù cải tạo
tôi được thả về. Tôi là người hoàn toàn không có quê hương, nhà cửa, không có một
chỗ nương thân hay hộ khẩu. Tôi đem gom tất cả quần áo, nữ trang của vợ, bán đi
mua một chiếc xuồng nhỏ, sống bấp bênh trên sông nước để kiếm sống qua ngày…
Nhưng xuồng cũng phải có bến đậu. Tôi lại về đậu xuồng ở vàm Cô Ba, gần nhà bà.
Biết bao nhiêu người muốn hạch hỏi, làm khó, nhưng bà như một con gà mái lúc
nào cũng dang rộng đôi cánh che chở cho bầy con khỏi bị quạ vồ. Tôi nhớ mãi những
lần tôi cột xuồng dưới gầm cầu Móng, bà đi vào rẫy về thường trao cho tôi những
bó cải thật tươi non. Tuy không đắt giá nhưng nó biểu lộ tấm lòng yêu thương vô
bờ của bà đối với tôi... Tôi ở dưới cánh của con gà thương yêu được hơn một năm
thì tôi qua Úc. Dù ở xa hàng ngàn cây số nhưng hình ảnh của Bà luôn luôn ở
trong hồn tôi, và xứ Búng chính là quê hương ngọt ngào của tôi.
Tôi luôn liên lạc về "Cô Ba", và
luôn coi Bà là mẹ hiền. Bà luôn nhắc tôi hãy về một chuyến. Bà nói: "Tao
đã chín mươi tuổi rồi, mầy về đây đi, ở nhà tao cũng được hay muốn cất nhà
riêng tao cho đất cất nhà. Đừng để đến khi tao chết rồi mới về ".
Rồi bất ngờ vào lúc 10 giờ đêm ngày
19/10/2007 tôi nhận được điện thoại từ Việt Nam báo "me" đã mất tại
nhà thương vì tai nạn xe cộ. Tôi điếng hồn và có làm bài thơ tả tôi cùng mẹ ,
đăng trong báo NQ. ít ngày sau đó. Bài thơ như sau :
Mẹ !
Thôi thế từ
nay xa thật rồi
Dù bên xác mẹ
vẫn xa xôi
Ngàn trùng
cách biệt dù bên mẹ
Mẹ đã xuôi
tay, giã từ đời.
Dù bao ngày
qua phải xa xôi
Con vẫn còn
mẹ nơi chân trời
Ngàn trùng
xa cách nhưng tim vẫn
Bên cạnh mẹ
yêu. Mẹ yêu ơi !
Bây giờ thì
thật là xa rồi
Dù có gào
thét mãi không thôi
Muôn đời con
vẫn xa mẹ thật
Làm sao cho
con khỏi ngậm ngùi ?
Chỉ mới hôm nào mẹ gọi con:
"Về đi
thôi, thăm mẹ một lần"
"Hay là
mầy để cho tao chết"
"Rồi mới
về đây, phải không con ?"
Tưởng chỉ là
lời trách thương thôi
Ai ngờ lại
là lời cuối đời
Mẹ ơi, con mẹ
dù còn sống
Bao lâu quên
được mối hận lòng ?
Con giờ có
khóc cũng bằng thừa
Của quí
trong tay bao lâu xưa
Như quên,
như nhớ trong hờ hững
Mất rồi mới
thấy đau không ngờ !!
Hồn con luôn
tựa bóng mẹ hiền
Tự nhiên
bóng mẹ không còn yên
Mẹ ơi hồn
con thật sự đã
Không còn đứng
vững, không còn nguyên !!.
Vậy là tuy không có nhà ở Búng, nhưng
trong hồn tôi có hai căn nhà ân tình ở đây thật rõ ràng. Một là căn nhà mẹ nói
về cho đất để cất. Mới gần đây con cháu mẹ cũng nhắc lại lời hứa cho đất của
bà, vì họ thương mẹ quá, mà họ biết mẹ thương tôi nên muốn làm vui lòng mẹ .
Còn một căn nhà ân tình thứ hai tôi ít khi
nhắc tới, nhưng lại vô cùng rõ nét trong hồn tôi . Khi ở Úc, lúc được 14 năm
tôi trở về thăm lại Việt-Nam, Tám Mèo, người bạn học rất thân, ngày còn đi học
tôi thường tới nhà hắn ăn dầm nằm dề ở đó để luyện thi. Bà má đầu tóc bạc trắng
lúc nào cũng vui cười, mà còn muốn làm mai một cô bé hàng xóm cho tôi nữa chứ.
Mỗi khi nhắc tới tôi đều cảm thấy mình được vào sống trong một thế giới kỳ diệu,
đầy tình thương yêu, theo tôi nghĩ, chỉ có xứ Búng mới có. Khi đi tù về, Tám
cũng là thằng bạn đầu tiên mà tôi gặp. Lúc đó hắn đang coi cái bệnh xá ở Búng.
Lúc đầu, tự nghĩ thân mình giờ bọt bèo, gặp chắc hắn chẳng thèm nhìn. Nhưng ngược
lại, tình cảm hắn với tôi vẫn không hề thay đổi.
Khi tôi ở Úc về, Tám vẫn làm việc như xưa,
nhưng buồn một điều là không còn má nữa. Tám bảo tôi: "Mầy về đây đi, về
đây tao để cho mầy miếng đất cất nhà, chúng mình ở gần nhau cho vui. Thế là tôi
có hai căn nhà ân tình. Cái nhà hay miếng đất thật sự không quan trọng, vì mình
có thể mua sắm nó được, nhưng ân tình thì không thể có tiền của nào mua được.
Hai căn nhà ân tình mà người xứ Búng ban cho tôi, tuy chưa biết hình dáng chúng
ra sao, nhưng lúc nào nó cũng là những an ủi êm đềm, mến thương đầm ấm mà tôi
luôn mong muốn được báo đáp những ân tình đó .
Khi qua đến Úc , tôi đã nhận nơi đây làm
quê hương. Tuy thời gian tôi ở Việt-Nam lâu hơn ở Úc, và tôi ở Búng chỉ khoảng
gần 10 năm, nhưng đó lại là nơi tôi yêu thương nhất. Vì đã cố ý nhận Úc làm quê
hương nên tôi thấy sự trở về sống ở VN thật xa vời. Chính vì thế khi mẹ và bạn
kêu cho đất để cất nhà, tôi không dám nhận, nhưng lòng vô cùng xúc động.
Gần 10 năm ở Búng , tôi có 1001 chuyện yêu
thương để kể, và có lẻ kể đến suốt đời vẫn chưa hết được. Thôi thì chỉ còn biết
nói " giấy ngắn , tình dài" vậy. Có một điều Búng luôn luôn vẫn là
nơi đầy yêu thương, ngọt ngào của tôi.
Melbourne,
1/11/2012
Thơ
Người Xứ
Búng
Tặng tác giả
bài "Xứ Búng ngọt ngào"
Người xa xứ
viết bài hay quá ..!
Đọc xong bài
nước mắt tôi rơi
Tấm chân
tình người Mẹ quê tôi
Thương anh
quá ân tình chưa trả
Ray rứt cả đời
nhớ mãi khôn nguôi
Thời gian đó
làm ta lỗi hẹn...
Để ngày về,
bóng Mẹ còn đâu ?
Trong tim
anh Mẹ vẫn in sâu ...
Nơi xứ lạ...
quê hương anh nhận !
Vẫn còn người
cảm nhận nỗi đau
Thời gian sẽ
xoá dần ký ức
Để tim thôi
ray rứt vì nhau
Của những
người không chung giòng máu
Nhưng có
chung nhau một tấm lòng ....
(3/2014)